ĐIỂM LẠI Cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam Chuyên đề đặc biệt Tạo thuận lợi thương mại bằng cách hợp lý hóa và cải thiện tính minh bạch của các biện pháp phi thuế quan |
TỔNG QUAN Những diễn biến kinh tế gần đây Môi trường bên ngoài đã trở nên kém lạc quan và bất định hơn. Tăng trưởng GDP toàn cầu theo giá so sánh dự kiến sẽ giảm nhẹ từ 3% theo dự báo cho năm 2018 xuống 2,9% cho năm 2019 và 2,8% cho năm 2020 do tác động của các hoạt động kinh tế bị chững lại, các ngân hàng trung ương rút dần chính sách tạo thuận lợi, tăng trưởng thương mại và đầu tư toàn cầu suy giảm khi căng thẳng gia tăng trong cuộc chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn. Sau khi đạt đỉnh 6,6% vào năm 2017, tăng trưởng GDP ở các nền kinh tế mới nổi tại Đông Á và Thái Bình Dương dự kiến sẽ giảm nhẹ từ 6,3% theo dự báo cho năm 2018 xuống 6,0% cho cả hai năm 2019 và 2020, chủ yếu do giảm xuất khẩu trong điều kiện căng thẳng thương mại tăng lên và đà phát triển kinh tế của Trung Quốc chững lại. Mặc dù điều kiện bên ngoài không thuận lợi như trước nhưng tăng trưởng của Việt Nam vẫn đứng vững với sự hỗ trợ bởi sức cầu mạnh trong nước kết hợp với sự năng động của các ngành chế tạo, chế biến theo định hướng xuất khẩu. Tăng trưởng GDP theo giá so sánh của Việt Nam vẫn giữ mốc 7% (so cùng kỳ năm trước) đến tận Quý 3, 2018. Các ngành công nghiệp và xây dựng tăng trưởng 8,9%, nhờ thành tích tăng trưởng sáng lạng ở mức 12,9% trong các ngành chế tạo, chế biến. Bên cạnh đó là mức tăng trưởng 3,7% trong ngành nông nghiệp nhờ sức cầu bên ngoài tuy giảm đà nhưng vẫn ở mức cao. Ngành dịch vụ tăng trưởng ở mức 6,9% do du lịch và tiêu dùng tư nhân vẫn phát triển tốt. Sức cầu trong nước vẫn mạnh, được phản ánh qua đầu tư và tiêu dùng tư nhân tiếp tục đứng vững và được sự tiếp sức bởi mức lương cao hơn, chính sách tiền tệ tạo thuận lợi và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn đổ vào mạnh mẽ. Mặc dù các cán cân kinh tế đối ngoại vẫn thặng dư nhưng các thị trường trong nước bắt đầu cảm nhận tác động lan tỏa do biến động tài chính toàn cầu tăng lên trong nửa cuối năm 2018. Thặng dư tài khoản vãng lai dự kiến vẫn được duy trì ở mức 2,2% GDP trong năm 2018, tương đương năm 2017. Lưu lượng thương mại tuy chững lại, nhưng tăng trưởng nhập khẩu giảm với tốc độ lớn hơn so với xuất khẩu. Đồng nội tệ bắt đầu phải chịu áp lực từ tháng 6/2018 do căng thẳng thương mại toàn cầu tăng lên và các đồng tiền trên toàn Châu Á yếu đi, dòng tiền thoái vốn tăng lên. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ứng phó bằng cách cho phép đồng nội tệ hạ giá từng bước, giảm khoảng 2,7% so với đồng đô-la Mỹ theo tỷ giá danh nghĩa (tính từ đầu năm). Mặc dù vậy, tỷ giá thực đa phương (REER) tiếp tục tăng lên đến khoảng 2,5% (tính từ đầu năm), có thể ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam. Tuy ít phải chịu nguy cơ về biến động dòng vốn khiến cho tác động lan tỏa tức thời của biến động toàn cầu chỉ ở mức hạn chế, nhưng Việt Nam cũng đã trải qua một số xáo trộn khi thị trường chứng khoán điều chỉnh tới 10% vào tháng 10. Chính sách tiền tệ vẫn theo hướng tạo thuận lợi, nhưng điều kiện tín dụng đã bị thắt lại trong nửa sau năm 2018 trong điều kiện lạm phát tăng nhẹ. Chỉ số giá tiêu dùng nhích dần trong năm 2018 đến tháng 10, chủ yếu do tăng giá thuộc diện nhà nước quản lý, nhưng vẫn ở mức vừa phải là 3,6% (so cùng kỳ năm trước). NHNN đã hạ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của khu vực ngân hàng và đặt ra hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng thương mại. Lãi suất liên ngân hàng tăng lên và đến nay đã song hành với lãi suất chiết khấu. Kết quả là tăng trưởng tín dụng của năm tính đến tháng 10 hạ nhiệt còn bình quân 15% (so cùng kỳ năm trước), từ mức 18.6% cùng kỳ năm 2017. Nhưng tỷ lệ tín dụng trên GDP vẫn cao, ở mức 136% trong Quý 3, 2018. Bội chi ngân sách giảm xuống giúp kiềm chế nợ công tăng lên. Theo số liệu sơ bộ đến Quý 3, 2018, bội chi ngân sách dự kiến rơi vào khoảng 4% GDP trong năm 2018, thấp hơn so với mức 4,3% năm 2017. Duy trì chính sách tài khóa kiềm chế và hạn chế cấp bảo lãnh của nhà nước cũng là cách để đảm bảo tuân thủ với hạn mức nợ công theo luật định là 65% GDP.
|
Tăng cường khả năng chống chịu về kinh tế vĩ mô cũng như năng lực cạnh tranh là hướng đi để hỗ trợ triển vọng tăng trưởng trong dài hạn. Là một nền kinh tế mở, Việt Nam cần duy trì chính sách tiền tệ thích ứng và tỷ giá linh hoạt, củng cố tình hình tài khóa và tăng trưởng tín dụng ở mức vừa phải để củng cố khung chính sách vĩ mô và nâng cao khả năng chống chịu. Đẩy mạnh cải cách cơ cấu, bao gồm cả cải cách doanh nghiệp nhà nước và khu vực ngân hàng, kết hợp với cải thiện hiệu suất đầu tư công là cách để nâng cao năng suất và sản lượng tiềm năng. Các chính sách nhằm đẩy mạnh tạo thuận lợi thương mại sẽ giúp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu, nhất là trong bối cảnh các hiệp định vừa được thông qua như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) (tham khảo phần Chuyên đề đặc biệt).
|